Công sứ được hiểu là đại diện ngoại giao đứng đầu công sứ quán. Họ được bổ nhiệm làm đại diện cho một nước cử trước nguyên thủ quốc gia của quốc gia tiếp nhận theo đúng quy định của luật quốc tế. Theo đó, công sứ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao gần giống như đại sứ. Vậy, cụ thể công sứ là gì? Hãy cùng Luật Hùng Sơn tìm hiểu ở bài viết này nhé!
Công sứ là gì? Công sứ quán là gì?
Như đã đề cập ở trên, công sứ là đại diện ngoại giao đứng đầu công sứ quán. Họ là những người được bổ nhiệm làm đại diện cho một quốc cử trước nguyên thủ quốc gia của đất nước tiếp nhận theo quy định của luật quốc tế.
Theo Quy chế Viên về việc phân loại các đại diện ngoại giao năm 1815, công sứ thuộc đại diện ngoại giao bậc 2 – cấp bậc này thấp hơn so với đại sứ. Theo quy định về quan hệ ngoại giao của Công ước Viên năm 1961, Công sứ với tư cách là đại diện cho nước cử trong quan hệ đối với nước tiếp nhận sẽ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao giống như đại sứ. Do đó, việc bổ nhiệm viên chức ngoại giao đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao cần phải có cấp ngoại giao cụ thể phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa những quốc gia hữu quan.
Phân biệt giữa Đại sứ đặc mệnh toàn quyền với Công sứ toàn quyền nhằm phản ánh quan điểm bất bình đẳng giữa các quốc gia. Tính đến thời điểm trước Thế chiến thứ nhất, tất cả mọi người đều cho rằng, chỉ có những nước quan trọng mới được cử Đại sứ, còn các quốc gia khác chỉ được cử Công sứ.
Sau thế chiến thứ II, người ta không chấp nhận được việc đối xử với một số quốc gia như kém hơn các quốc gia khác. Quan điểm này được đưa ra bởi học thuyết bình đẳng của Liên Hiệp Quốc về những quốc gia có chủ quyền. Lúc này, cấp bậc của công sứ dần dần trở nên lỗi thời khi các quốc gia nâng cấp quan hệ của họ lên cấp đại sứ. Đồng thời, hàm công sứ vẫn còn tồn tại vào năm 1961, khi mà Công ước Viên về quan hệ ngoại giao được ký kết, tuy nhiên nó đã không tồn tại trong thập niên này. Những quốc gia còn lại của Mỹ cuối cùng, ở các nước thuộc Khối hiệp ước Warsaw của Bulgaria và Hungary cũng đã được nâng cấp thành các đại sứ quán vào năm 1966.
Các nước châu Mỹ – Latinh trước đây thông thường công sứ trao đổi đại diện ngoại giao với nhau. Tuy nhiên sau Thế chiến thứ nhất họ bắt đầu trao đổi Đại sứ, không kể là đất nước quan trọng hay không quan trọng. Nhất là, sau Thế chiến thứ II, bởi thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, hệ thống thuộc địa tan rã, rất nhiều quốc gia mới thành lập, quan hệ quốc tế có vô vàn thay đổi dẫn đến việc trao đổi đại diện ngoại giao tại cấp Đại sứ càng trở nên phổ biến hơn. Lúc này số Công sứ toàn quyền ngày càng giảm và tính đến nay thì hầu hết các quốc gia tiến hành khi thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau đều quy định trao đổi đại diện ngoại giao tại cấp Đại sứ.
Năm 1947, tại Moscow (Nga) đã có 18 Công sứ quán thì đến năm 1957 chỉ còn lại 2 người. Năm 1973, tại Paris (Pháp) chỉ có 2 Công sứ quán là Saint-Martin và Monaco. Năm 1978, Stockholm (Thụy Điển) chỉ còn Công sứ quán Nam Phi. Năm 1955 tại Hà Nội, có 2 Công sứ quán Mông Cổ và Bungan tuy nhiên năm 1956 đã nâng lên Đại sứ quán.
Theo quy định của Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao của Việt Nam ban hành ngày 31.5.1995, công sứ thuộc cấp ngoại giao cao cấp sẽ được phong cho những công chức ngành ngoại giao nhằm đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định (Xt. Đại sứ, Quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao).
Khái niệm công sứ trong lịch sử được hiểu đơn giản là chức danh viên quan người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị cấp tỉnh tại Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc; được thiết lập tại Bắc Kỳ (1883) và Trung Kỳ (1885).
Quy chế pháp lý của những Công sứ toàn quyền cũng có một sự thay đổi khá rõ rệt. Xét về phương diện này thì hiện nay không có gì khác nhau giữa tính đại diện quốc gia của 1 vị Đại sứ đặc mệnh toàn quyền và 1 vị Công sứ toàn quyền. Trong lĩnh vực lễ tân, sự khác nhau đó cũng mất đi dần. Hiểu đơn giản, nghi thức trình Thư ủy nhiệm của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền cũng như Công sứ toàn quyền hoàn toàn giống nhau.
Nhìn chung, nếu như trước kia những nước nhỏ có bị hạn chế phần nào trong việc trao đổi Đại sứ thì hiện nay bất cứ quốc gia nào cũng có thể tùy ý trao đổi Đại sứ đặc mệnh toàn quyền hay Công sứ toàn quyền và sự trao đổi đó không phản ánh vị trí của 1 nước trên trường quốc tế.
Công sứ tiếng anh là gì?
Trong tiếng Anh, công sứ còn được gọi là Ambassador.
Những điều cần biết về công sứ
Công sứ quán
Công sứ quán (legation) là thuật từ được sử dung trong ngoại giao dùng để chỉ văn phòng đại diện ngoại giao bậc thấp hơn 1 đại sứ quán. Công sứ quán còn có thể hiểu là cơ quan đại diện ngoại giao.
Sự phân biệt giữa một công sứ quán và đại sứ quán bị bỏ đi kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Khi đó, tất cả các văn phòng đại diện ngoại giao hiện tại đều được ấn định là đại sứ quán hay cao uỷ.
Tham tán công sứ
Tham tán công sứ được hiểu là chức vụ ngoại giao bổ nhiệm cho thành viên có hàm tham tán công tác ở các cơ quan đại diện ngoại giao của nhà nước tại nước ngoài hoặc phái đoàn đại diện thường trực trong tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Tham tám công sứ là chức vụ ngoại giao sau đại sứ đặc mệnh toàn quyền, công sứ đặc mệnh toàn quyền, người đại diện, trưởng đoàn đại diện thường trực, công sứ. Trong một vài trường hợp, ở cơ quan đại diện ngoại giao của quốc gia tại nước ngoài chưa có đại sứ đặc mệnh toàn quyền thì tham tám công sứ có thể được cử giữ chức vụ người đứng đầu trong 1 khoảng thời gian nhất định theo quyết định của quốc giacử đại diện. Ở Việt Nam, căn cứ theo pháp lệnh năm 1995 về hàm, cấp ngoại giao đã quy định cụ thể về hệ thống hàm, cấp, chức vụ ngoại giao, trong đó có chức vụ tham tám công sứ.
Trên đây là những thông tin cơ bản lý giải công sứ là gì và những thông tin có liên quan khác. Hy vọng bài viết này đã giúp bạn lý giải những thắc mắc về công sứ nói riêng của cơ quan đại diện luật pháp nói chung. Đừng quên tham khảo thêm nhiều bài viết thú vị khác về luật pháp của chúng tôi nhé!