Tội cố ý gây thương tích cho người khác

Câu hỏi 1: Anh trai tôi có bạn quan hệ với một cô gái, cùng thời điểm đó cô ấy cũng có quan hệ với một anh chàng khác(tôi gọi anh ấy tên là B). Anh trai tôi biết mối quan hệ này nên đã hẹn gặp anh B để nói chuyện và bảo B từ bỏ chị ấy. Để dằn mặt “tình địch” anh ấy đã chuẩn bị dao găm và một đoạn côn gỗ để khi cần thiết sẽ sử dụng.

Quảng cáo

Một buổi tối anh ấy hẹn B lên bờ để để “nói chuyện”. Không thuyết phục được B từ bỏ quan hệ với C nên anh trai tôi bất ngờ đã dùng dao đâm bừa nhiều nhát vào cơ thể B làm cho B chết khi đưa đi đến bệnh viện do mất nhiều máu. Trong lúc này anh trai tôi đã nảy sinh ra ý định lục túi lấy tiền và điện thoại di động của B, số tài sản trị giá 3 triệu đồng thì tội danh đối với hành vi phạm tội của anh trai tôi là như thế nào?

 

 

lightbulb Tư vấn của Luật Hùng Sơn về tội cố ý gây thương tích cho người khác

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công Ty Luật Hùng Sơn và Cộng Sự, chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

Theo như dữ liệu bạn cung cấp thì anh trai bạn và B cùng yêu 1 cô gái. Anh trai bạn đã chuẩn bị trước dao găm và một đoạn côn gỗ với ý định dằn mặt B. Vì không thuyết phục được nên anh trai bạn đã bất ngờ đâm bừa nhiều vào cơ thể của B làm cho B chết sau đó anh ấy đã lục túi lấy tiền của B. Như vậy anh trai bạn đã phạm 2 tội là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 bộ luật hình sự 2015 và tội cướp tài sản theo điều 168 Bộ luật hình sự 2015.

Vì trước hết hành vi của anh trai bạn ngày từ đầu chỉ muốn dằn mặt với B chứ không có ý định giết B nhưng với vết thương mà anh trai bạn đâm  dẫn đến B chết, sau khi B chết anh ấy mới nảy sinh ý định lục túi B để lấy tiền và điện thoại thì ở đây không có hành vi lén lút nữa nên cấu thành tội cướp tài sản. Chỉ trừ khi anh ấy có ý định cướp tài sản từ trước rồi mới làm cho B chết thì sẽ thay đổi về tội danh.

Theo căn cứ Điều 134 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác:

“5.Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.”

Theo căn cứ Điều 168 quy định về Tội cướp tài sản:

“1.Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Như vậy anh trai bạn đã vi phạm pháp luật tại Khoản 5 Điều 134 BLHS 2015 cố ý gây thương tích cho người khác dẫn đến chết người và có hành vi cướp tài sản sau khi biết nạn nhân đã bị chết theo khoản 1 Điều 168 BLHS 2015

Câu hỏi 2: Gia đình em vừa xảy ra một chuyện như sau: chồng em đang đi làm vô tình rơi túi đồ rồi quay lại nhặt một thanh niên đi xe qua rồi xuống xe đánh chồng em túi bụi chồng em không phản kháng gì. Vừa lúc đó anh trai em đi đến can thì thanh niên đó ra xe lấy thanh kiếm đánh bị thương vào tay anh em để tự vệ đã cầm thanh sắt đánh vào đầu thanh niên đó bị nứt hộp sọ. Luật sư cho em hỏi gia đình em có thể tố cáo thanh niên đó không? Anh em tự vệ vậy có vi phạm luật pháp không ạ? Mong nhận được phản hồi sớm nhất. Xin cảm ơn?

lightbulb Tư vấn Luật Hùng Sơn về tội cố ý gây thương tích

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến cho Luật Hùng Sơn, chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau :

Quảng cáo

Thứ nhất

Hành vi của người thanh niên dùng vũ lực với chồng chị để nhằm chiếm đoạt túi đồ của chồng chị đã vi phạm pháp luật được quy định tại Khoản 1, Điều 168, Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

Khoản 1 Điều 168 Tội cướp tài sản

“1.Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Và hành vi dùng kiếm đánh anh trai bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

Điều 134 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1.Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người.

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.

e) Có tổ chức.

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Thứ hai

Xem xét về hành vi của anh trai bạn là hành vi đánh trả lại người khác để bảo vệ quyền và lợi ích cho bạn và anh trai bạn và hành vi này vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Khoản 2, Điều 22, Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

“2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Đây là tình tiết giảm nhẹ để tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với hành vi của anh bạn đã đánh lại người đánh bạn, gây thương tích cho họ và sử dụng hung khí nguy hiểm là cây sắt thì sẽ bị xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích, theo quy định tại, Điều 136, Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

1.Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3.Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

Trường hợp 1

Nếu người anh trai bạn đánh có giấy giám định thương tật là dưới 60 %  thì anh trai bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 136 BLHS 2015 như sau:

1.Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Trường hợp 2

Người mà anh trai bạn đánh có giấy giám định thương tật trên 61 % thì anh trai bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 136 BLHS 2015.

Và căn cứ tại Điều 155, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

1.Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2.Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3.Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Tạm kết :

Như vậy theo khoản 1 Điều 155 cảu Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định thì khi có đơn yêu cầu của người bị hại thì mới khởi tố vụ án.Còn nếu không có thì anh trai bạn phải bồi thường dân sự cho người bị hại.

Còn anh trai bạn mà thuộc khoản 2 Điều 136 của bộ Luật hình sự 2015 thì anh trai bạn phải chịu trách nhiệm hình sự kể cả không có yêu cầu khởi tố của người bị hại.

Vui lòng đánh giá!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Tin mới

Các tin khác

Video tư vấn pháp luật

To-top
Developed by Luathungson.vn
Facebook Messenger
Chat qua Zalo
Tổng đài 19006518
Developed by Luathungson.vn