logo

Hiếp dâm không thành có bị xử lý hình sự không?

Chắc hẳn rất nhiều người thắc mắc hiếp dâm không thành có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Để lý giải điều này, đừng bỏ lỡ thông tin mà Luật Hùng Sơn cung cấp dưới đây!

Hành vi hiếp dâm là gì?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 141 của Bộ luật Hình sự năm 2015, hiếp dâm là hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hay thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác trái ngược với ý muốn của nạn nhân.

Trong đó, theo giải thích tại Điều 3 của Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP, giao cấu chính là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào trong bộ phận sinh dục nữ, đối với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.

Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện và không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hoặc chưa xâm nhập.

Còn quan hệ tình dục khác chính là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, các bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), các dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn, miệng của người khác đối với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm 1 trong các hành vi:

  • Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng hoặc hậu môn của người khác;
  • Sử dụng bộ phận khác trên cơ thể (chẳng hạn: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), các dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ hoặc hậu môn của người khác.

Như vậy, đối với tội hiếp dâm, trong trường hợp giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác bằng cách sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể nào tự vệ được của nạn nhân thì được coi là tội phạm hoàn thành.

Mức phạt cơ bản của tội này là phạt tù tính từ 2 – 7 năm, nếu tăng nặng có thể thể phạt tù lên tới 20 năm, tù chung thân hay thậm chí là tử hình (căn cứ theo Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cụ thể:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

c) Nhiều người hiếp một người;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Có tính chất loạn luân;

g) Làm nạn nhân có thai;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. 

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

hiếp dâm không thành có bị xử lý hình sự

Hiếp dâm không thành có bị xử lý hình sự không?

Hiếp dâm không thành được hiểu là trường hợp phạm tội chưa đạt của Tội hiếp dâm. Cụ thể, trong Điều 15 của Bộ luật Hình sự có quy định:

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm tuy nhiên không thực hiện được đến cùng vì các nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Đối tượng phạm tội chưa đạt cần phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Theo quy định trên có thể hiểu rằng, việc hiếp dâm không thành là việc 1 người có hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể nào tự vệ được của nạn nhân tuy nhiên chưa thực hiện được mục đích cuối cùng là giao cấu hay quan hệ tình dục khác do những nguyên nhân ngoài ý muốn.

Đối với những hành vi hiếp dâm không thành, những đối tượng thực hiện vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội hiếp dâm. Căn cứ theo Điều 57 Bộ luật Hình sự có quy định như sau:

1. Đối với các hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt sẽ được quyết định theo các điều tại Bộ luật này về những tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và các tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

2. Đối với các trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt sẽ được quy định trong các điều luật cụ thể.

3. Đối với các trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu như điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc án tử hình thì áp dụng hình phạt tù không vượt quá 20 năm; trong trường hợp là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định.

Dựa theo quy định trên và quy định về Tội hiếp dâm tại Điều 141, đối tượng thực hiện hành vi hiếp dâm không thành sẽ bị áp dụng theo mức phạt không quá ¾ mức phạt tù theo quy định, nếu như thuộc trường hợp tăng nặng thì mức phạt tù áp dụng không vượt quá 20 năm.

Tự ý dừng hành vi hiếp dâm có có bị coi là phạm tội hay không?

Quy định về việc tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội

Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội sẽ được quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là việc tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy nhiên không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; trong trường hợp hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các yếu tố cấu thành của 1 tội khác, đối tượng đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Hành vi được thừa nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cần phải có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan. Khi có đủ điều kiện đó người thực hiện hành vi phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.

  • Điều kiện khách quan để có thể thừa nhận chính là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là không thực hiện tội phạm cho đến cùng, mặc dù không có gì ngăn cản. Điều kiện này đòi hỏi đối tượng phạm tội đang còn điều kiện thực hiện tội phạm giống như công cụ, phương tiện phạm tội có hiệu nghiệm, đối tượng phạm tội không bị phát hiện hay điều kiện thuận lợi khác để có thể thực hiện tội phạm trót lọt. Việc chấm dứt tội phạm cần phải xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành.

Chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành là những trường hợp người phạm tội mới tìm kiếm, sửa soạn công cụ phương tiện hoặc chưa thực hiện hết các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm, do vậy hậu quả của tội phạm chưa xảy ra cho xã hội. Trong lúc này người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa, là điều kiện tiên quyết của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Trong trường hợp người phạm tội chấm dứt hành vi của mình ở giai đoạn phạm tội hoàn thành hay chưa đạt nhưng đã hoàn thành thì sẽ không được thừa nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì họ đã thực hiện hết các hành vi khách quan của việc cấu thành tội phạm do điều luật quy định.

  • Điều kiện chủ quan: Người phạm tội cần phải chấm dứt việc phạm tội 1 cách tự nguyện và dứt khoát, triệt để. Việc chấm dứt hành vi phạm tội dứt khoát thể hiện ở chỗ từ bỏ hẳn, chấm dứt hẳn tội phạm. Trong trường hợp người phạm tội chỉ chấm dứt tạm thời, chờ đợi thời cơ thuận lợi lại tiếp tục phạm tội sẽ không được coi là dứt khoát. Đối tượng phạm tội phải tự mình chấm dứt hành vi phạm tội, việc chấm dứt hoàn toàn là tự nguyện, tự giác chứ không phải bởi lý do bị ngăn cản. Pháp luật không quy định nguyên nhân dẫn tới chấm dứt tội phạm, vì vậy người phạm tội có thể chấm dứt hành vi phạm tội bởi bất cứ nguyên nhân nào như là: thương người bị hại, sợ trừng phạt, hối hận…

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm bởi họ đã từ bỏ hẳn ý định phạm tội khi họ không có bất cứ sự ngăn cản nào. Điều này chứng tỏ họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Tuy nhiên khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, đối tượng chấm dứt chỉ được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Trong trường hợp hành vi thực tế của họ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, chưa hoàn thành đã có đủ dấu hiệu cả những yếu tố cấu thành tội phạm khác thì họ cần phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó, họ chỉ được phép miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm chứ không được miễn trách nhiệm hình sự về tội phạm khác mà họ đã phạm tại giai đoạn chuẩn bị hay giai đoạn chưa đạt, chưa hoàn thành.

Tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi hiếp dâm có phạm tội không?

Tội hiếp dâm là tội phạm về hình thức, tức là tội phạm hoàn thành khi hành vi xảy ra. Đối với trường hợp người thực hiện hành vi đã chuẩn bị phạm tội nhưng ngay sau đó đã tự bản thân, không do bất cứ nguyên nhân khách quan chấm dứt hành vi phạm tội của mình thì sẽ không có đủ yếu tố để cấu thành tội hiếp dâm theo quy định.

Nhưng tùy vào từng việc người này đang thực hiện có thể bị truy tố với tội danh làm nhục người khác được quy định cụ thể tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

Điều 155. Tội làm nhục người khác

1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng – 30.000.000 đồng hay phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.

2. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm:

a) Phạm tội 2 lần trở lên;

b) Đối với 2 người trở lên;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Đối với người đang thi hành công vụ;

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;

e) Sử dụng mạng máy tính hay mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.

3. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù kể từ 2 – 5 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm các chức vụ, cấm hành nghề hay làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm.

Tội làm nhục người khác hiện nay được quy định trong điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017)

Tội làm nhục người khác sẽ được quy định là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.

Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm:

Người phạm tội có hành vi có tính chất xúc phạm nghiêm trọng tới nhân phẩm, danh dự của người khác.

Những hình thức biểu hiện của hành vi này vô cùng đa dạng, đó có thể là những lời nói có tính chất thoá mạ, sỉ nhục, miệt thị hạ thấp danh dự, xúc phạm tới nhân phẩm như chửi bới, nhạo báng… hoặc có thể là các cử chỉ, hành vi có tính chất bỉ ổi xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác.

Các hành vi này có thể được thực hiện công khai trước mặt người bị xúc phạm hay có thể qua người khác để tới người này.

Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Đối tượng phạm tội biết hành vi của mình là xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm người khác dụng) đó là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hay làm công việc nhất định từ 1- 5 năm.

Khách thể tội làm nhục người khác

Công dân Việt Nam hoàn toàn có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe cũng như nhân phẩm và danh dự. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân chính là trách nhiệm của mỗi người.

Làm nhục người khác chính là hành vi của 1 người sử dụng lời nói hoặc hành động làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhân phẩm, danh dự của người khác. Hành vi phạm tội trên xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm của người khác.

Chủ thể tội làm nhục người khác

Người có năng lực trách nhiệm hình sự chính là đối tượng khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoàn toàn có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội với chính hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi ấy. Đối với tội làm nhục người khác, đối tượng có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu đơn giản là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội với hành vi xúc phạm nghiêm trọng tới nhân phẩm danh dự của người khác và hoàn toàn có khả năng điều khiển hành vi đó.

Bài viết trên đây chắc hẳn đã giúp các bạn lý giải thắc mắc hiếp dâm không thành có bị xử lý hình sự không? Hy vọng thông tin này sẽ giúp bạn đọc có được cái nhìn rõ hơn về vấn nạn hiếp dâm hiện nay. Đừng quên tìm hiểu thêm nhiều tin tức bổ ích khác về luật pháp từ Luật Hùng Sơn nhé!

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


Tin mới

Các tin khác

Video tư vấn pháp luật

To-top