Năm vừa qua, Công an thành phố Hà Nội đã có phát lệnh truy nã đối với một đối tượng giả danh công an để bắt giữ người ngay giữa ban ngày gây xôn xao dư luận. Vậy hành vi giả danh công an bắt giữ người bị xử lý như thế nào theo pháp luật hiện hành? Bài viết sau của Luật Hùng Sơn sẽ làm rõ vấn đề này.
Hành vi giả danh công an bắt giữ người là vi phạm pháp luật nghiêm trọng
Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước ta có quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm...; Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định. Theo đó, hành vi giả danh công an bắt giữ người xâm phạm tới cả khách thể được luật hình sự bảo vệ đó là quyền tự do và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của công dân. Vì vậy, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật này sẽ bị xử lý với những chế tài tương ứng theo quy định của pháp luật.
Giả danh công an bắt giữ người bị truy cứu hình sự tội gì?
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, giả danh công an bắt giữ người có thể bị truy cứu hình sự tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật tại Điều 157. Hành vi giả danh công an bắt giữ người sẽ cấu thành tội phạm này khi có đủ các dấu hiệu pháp lý như sau:
Thứ nhất, về khách thể:
Khách thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là quyền tự do thân thể của con người. Đây là một trong những quyền cơ bản, quan trọng và bất khả xâm phạm, không ai bị tước đoạt trái pháp luật, quyền này được pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam bảo vệ. Ngoài ra, đối tượng tác động của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là con người, hành vi bắt người trái pháp luật đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của họ và có thể gián tiếp gây ra những thiệt hại khác về tính mạng, sức khỏe của người bị bắt.
Thứ hai, về chủ thể:
Là những người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, về mặt khách quan:
Là hành vi bắt người trái pháp luật. Tính trái pháp luật được thể hiện ở việc bắt người không đúng về thẩm quyền, không có căn cứ, không đúng trình tự thủ tục mà pháp luật quy định trong việc bắt người. Tại các Điều 110, 111, 112 và 113 Bộ luật hình sự 2015 quy định về các trường hợp bắt người bao gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam đồng thời quy định thẩm quyền ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Đối với trường hợp bắt người đang phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có thẩm quyền bắt. Như vậy, việc bắt người trái pháp luật là hành vi một hoặc một số người không có thẩm quyền bắt người mà thực hiện việc bắt người hoặc có thẩm quyền bắt người nhưng lại bắt người không có căn cứ theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, hành vi này thuộc trường hợp không có thẩm quyền bắt người mà thực hiện việc bắt người trái pháp luật.
Thứ tư, về mặt chủ quan:
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý.
Như vậy, nếu hành vi giả danh công an bắt giữ người có đầy đủ 04 dấu hiệu pháp lý như trên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Tùy theo mức độ của tội phạm mà chủ thể phạm tội sẽ phải chịu những hình phạt tương ứng.
Giả danh công an bắt giữ người bị xử lý như thế nào?
Người nào có hành vi này sẽ bị xử lý như sau:
Thứ nhất, truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật với những hình phạt như sau:
Khung hình phạt cơ bản: Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người có hành vi bắt giữ người trái pháp luật. Thực tiễn áp dụng luật cho thấy người phạm tội bị truy tố, xét xử theo khung hình phạt này chủ yếu có hành vi bắt người trái pháp luật mà không có hành vi xâm hại sức khỏe, nhân phẩm của người bị hại, thời gian bắt ngắn và người phạm tội có nhân thân tốt.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất:
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu thuộc các trường hợp sau đây:
– Có tổ chức;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
– Đối với người thi hành công vụ;
– Phạm tội 02 lần trở lên;
– Đối với 02 người trở lên;
– Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
– Làm cho gia đình người bị giam, giữ lâm vào tình trạng khó khăn, quẫn bách;
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật từ 11% đến 45%.
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai:
Bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Làm người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật chết hoặc tự sát;
– Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân;
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật 46% trở lên.
Hình phạt bổ sung: Người có hành vi giả danh công an bắt giữ người trái pháp luật còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ hai, hành vi giả danh công an bắt giữ người có thể bị xử lý vi phạm hành chính nếu đối tượng phạm tội sử dụng những công cụ trái pháp luật như: còng tay (hay còn gọi là khóa số 8), súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, dùi cui điện,… Danh sách những công cụ hỗ trợ này được quy định cụ thể tại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017.
Thứ ba, ngoài ra, chủ thể có hành vi giả danh công an bắt giữ người có thể phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho người bị hại do đã xâm hại tới sức khỏe của người bị hại. Trách nhiệm này được quy định tại Điều 590 của Bộ luật dân sự 2015.
Trên đây là tư vấn của Luật Hùng Sơn về những vấn đề liên quan đến việc giả danh công an bắt giữ người trái pháp luật bị xử lý như thế nào. Nếu có vướng mắc hoặc cần hỗ trợ thêm thì vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi.
Trân trọng./.