Thừa kế theo cách hiểu thông thường là thực thi việc chuyển giao các lợi ích vật chất, các nghĩa vụ tài sản từ người đã chết sang một cá nhân hoặc tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về những chủ thể nào? Trường hợp vợ chồng ly thân có được hưởng thừa kế không? Bài viết dưới đây của Luật Hùng Sơn sẽ giúp bạn có được câu trả lời cho các vấn đề trên.
1. Ly thân là gì?
Ly thân – thuật ngữ này được sử dụng phổ biến để chỉ tình trạng vợ và chồng không còn chung sống với nhau nhưng vẫn chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam đến nay vẫn chưa ghi nhận “Ly thân” là một sự kiện pháp lý mặc dù cụm từ này được sử dụng khá phổ biến để diễn tả tình trạng không còn chung sống nhưng cũng chưa tiến hành thủ tục ly hôn giữa vợ chồng.
Theo nguyên tắc, ly thân không được xem là sự kiện pháp lý chấm dứt quan hệ vợ chồng, mà chỉ có thể là một căn cứ để Tòa án cân nhắc và xem xét trong quá trình giải quyết cho ly hôn.
Vậy, dù vợ chồng đã ly thân nhưng về mặt pháp lý vẫn là vợ chồng hợp pháp và được sự thừa nhận của pháp luật. Do đó, “Ly thân” không phải sự kiện quyết định mối ràng buộc, cũng như không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa vợ và chồng.
Trong thực tế, nhiều cặp vợ chồng không chọn giải pháp ly hôn mà chỉ ly thân, xuất phát từ tâm lý ngại mang điều tiếng, ảnh hưởng danh dự, uy tín gia đình, ảnh hưởng con cái, đến khối tài sản chung,…
>>> Tư vấn ly hôn đơn phương khi đã ly thân?
2. Quyền thừa kế tài sản khi vợ, chồng đã ly thân
Khi một người qua đời, người đó có thể đã lập di chúc hoặc không. Nếu di chúc được lập hợp pháp thì di sản thừa kế được định đoạt theo di chúc. Nhưng trường hợp không có di chúc, phần di sản được phân chia như thế nào?
2.1 Quyền thừa kế
Theo Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 609 quy định về quyền thừa kế như sau:
“Điều 609. Quyền thừa kế
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
Pháp luật dân sự luôn đề cao quyền tự định đoạt của các chủ thể. Ngay cả với tài sản của mình, sau khi chết, chủ sở hữu cũng có thể định đoạt được thông qua việc lập “di chúc” hợp pháp và chỉ khi người có tài sản không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc không có ý chí phân chia di sản thừa kế thì khi ấy pháp luật mới tiến hành định đoạt.
Như vậy, có thể phân chia quyền thừa thế dưới hai dạng: Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
2.2 Quyền nhận di sản thừa kế
Trường hợp 1:
Nội dung di chúc thể hiện CÓ phân chia di sản thừa kế cho vợ/chồng đang ly thân của người đã mất VÀ phần di sản có giá trị từ hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp này, nếu di chúc hợp pháp và được lập theo đúng quy định pháp luật thừa kế, phần di sản phân chia cho vợ/chồng có giá trị tối thiểu từ hai phần ba suất thừa kế thì di sản thừa kế được phân chia theo di chúc. Khi đó, vợ/ chồng dù đang lý nhân nhưng vẫn được hưởng thừa kế.
Trường hợp 2:
Nội dung di chúc thê hiện KHÔNG phân chia di sản thừa kế cho vợ/chồng đang lý thân của người đã mất HOẶC CÓ phân chia di sản thừa kế cho người này nhưng phần di sản có giá trị ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Xét tới trường hợp 2, Pháp luật về thừa kế cũng quy định như sau, liên quan đến quyền nhận di sản thừa kế của những người thân thích:
“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Vợ, chồng dù đã ly thân nhưng vẫn được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Trường hợp một trong hai người chết có để lại di chúc nhưng di sản phân chia cho chồng/ vợ ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật hoặc KHÔNG phân chia cho vợ/ chồng thì theo quy định, vợ/ chồng vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. (Thừa kế theo pháp luật).
Pháp luật dân sự tôn trọng và thừa nhận ý chí tự định đoạt của chủ thể, tuy nhiên quy định này được xây dựng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho những người thân thích, người yếu thế: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên không có khả năng lao động.
Tất nhiên, các trường hợp nói trên loại trừ trường hợp vợ/chồng có quyền nhận di sản thừa kế nhưng từ chối nhận di sản hoặc không đủ điều kiện để hưởng di sản:
“Điều 620. Từ chối nhận di sản
1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”
“Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.”
Trường hợp 3:
Thừa kế theo pháp luật, áp dụng trong các trường hợp:
1. Không có di chúc;
2. Di chúc không hợp pháp;
3. Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế không còn tồn tại tại thời điểm mở thừa kế;
4. Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản
Thừa kế theo pháp luật, áp dụng với phần di sản:
1. Di sản không được định đoạt trong di chúc;
2. Di sản liên quan đến một phần phần của di chúc không có hiệu lực;
3. Di sản liên quan đến người không có quyền hưởng, từ chối di sản, chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc…
Về thứ tự phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 như sau: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Như vậy, trường hợp người chết không có di chúc thì di sản được phân chia theo pháp luật.
2.3 Vợ chồng đã ly thân có được hưởng thừa kế khi người kia chết?
Với những phân tích và trích dẫn các quy định cụ thể trên, Vợ chồng đã ly thân đều được hưởng thừa kế di sản của nhau khi một trong hai người không may qua đời. Ngoại trừ trường hợp người còn sống từ chối nhận di sản hoặc có những hành vi dẫn đến bị tước quyền hưởng di sản (Điều 620; Điều 621 Bộ Luật Dân sự 2015).
Như vậy, loại trừ các trường hợp từ chối nhận di sản và không được hưởng quyền di sản. Dù có di chúc hay không, vợ/ chồng ly thân vẫn được hưởng thừa kế.