Định nghĩa về tăng trưởng kinh tế không quá phức tạp, nó đã được nhiều nhà nghiên cứu nói đến qua những cuốn sách, bài viết, nghiên cứu khoa học. Trong khuôn khổ bài viết này, hãy cùng Luật Hùng Sơn tìm hiểu tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế trong tiếng Anh gọi là Economic Growth, khác với Phát triển kinh tế tiếng Anh là Economic development. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của một trong các yếu tố dưới đây trong một khoảng thời gian nhất định:
(i) tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP); hoặc
(ii) tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Products, GNP); hoặc
(iii) quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (Per Capita Income, PCI).
Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế có thể được định nghĩa là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Khi mà các giá trị lợi ích tìm được trong nền kinh tế được quan tâm. Với các giá trị thể hiện cao hơn, kinh tế đang có các tăng trưởng so với quãng thời gian trước đó.
Quá trình tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và quá trình đầu tư những tài sản này để có năng suất tốt hơn là 02 quá trình ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế. Mặc dù tích lũy (tiết kiệm) và đầu tư là 2 yếu tố trọng tâm, nhưng chỉ có đầu tư hiệu quả thì mới có sự tăng trưởng mạnh.
Ngoài 2 yếu tố/quá trình nêu trên, sự ổn định về chính trị, chính sách, pháp luật của chính phủ, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, giáo dục,…cũng sẽ đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về các thuật ngữ GPD, GNP và PCI, Luật Hùng Sơn xin được nêu lại định nghĩa về các thuật ngữ này như sau:
- Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
- Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.
- Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Phân biệt tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là gì đã được phân tích như trên, do vậy, muốn phân biệt được sự khác và giống nhau giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, chúng ta sẽ đi vào phân tích khái quát “thế nào là phát triển kinh tế”.
Phát triển kinh tế (economic development) có nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế bao gồm:
- Tăng trưởng kinh tế;
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại;
- Đảm bảo công bằng xã hội.
Như vậy, có thể thấy tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ số để đánh giá về sự phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế phải được đo đếm và định lượng bằng một con số cụ thể trong các khoảng thời gian nhất định. Nó thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Như đã nói, phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trường. Khác với tăng trưởng kinh tế có thể đo đếm, định lượng được thì phát triển là một khái niệm trừu tượng khó đo lường cụ thể.
Ngoài việc tăng trưởng về các chỉ số thu nhập, phát triển kinh tế còn phụ thuộc vào sự đi lên của khoa học kỹ thuật, như phúc lợi xã hội, tuổi thọ người dân, v.v. và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Nói cách khác, phát triển kinh tế là quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn của người dân về mọi mặt của đời sống.
Có thể thấy, ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ, đó không thể gọi là một quốc gia phát triển.
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
Trước khi đi vào lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại ngày nay, chúng ta cùng xem xét và phân tích 1 số lý thuyết tăng trưởng kinh tế vào các thời kỳ trước.
Lý thuyết cổ điển: Adam Smith, R.Malthus, David Ricardo là những nhà kinh tế học tiêu biểu thời xưa đưa ra các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế.
Adam Smith cho rằng tích lũy vốn và cả tiến bộ công nghệ cùng các nhân tố xã hội, thể chế đều đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Tăng sản lượng thông qua việc tăng số lượng đầu vào tương ứng – gia tăng tư bản theo chiều rộng. Tuy nhiên vì đất đai là có hạn nên đến một lúc nào đó sản lượng đầu ra sẽ tăng chậm dần.
R.Malthus: Dân số tăng theo cấp số nhân, còn lương thực tăng theo cấp số cộng (do sự hữu hạn của đất đai). Muốn duy trì tăng sản lượng thì phải giảm mức tăng dân số.
David Ricardo (1772-1823): với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nông phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng
Nói tóm lại, các nhà kinh tế cổ điển như Adam Smith, R.Malthus và David Ricardo nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nguồn lực tự nhiên (như đất đai) trong tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tân cổ điển: điển hình là mô hình của Robert Solow. Theo đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo lý thuyết này cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
Lý thuyết hiện đại:
Cùng với sự phát triển của xã hội, hoàn cảnh, điều kiện của từng thời kỳ cũng khác nhau dẫn đến sự thay đổi về cách đánh giá, nhìn nhận về kinh tế của mỗi thời kỳ. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thừa kế những lý thuyết của giai đoạn trước và bổ sung thêm các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng.
Paul Romer một nhà kinh tế học người Mỹ đã đưa ra lý thuyết tăng trưởng kinh tế, trong đó, tiến bộ công nghệ được quyết định bởi vốn tri thức mà vốn tri thức lại phụ thuộc vào hoạt động đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (Research and Development, R&D) của nền kinh tế.
Ông chỉ ra rằng vốn tri thức là một loại vốn đặc biệt. Xét trên mức độ vi mô, ở phạm vi hẹp thì nó có lợi tức giảm dần (giống các loại hình vốn vật chất khác) nhưng xét trên góc độ vĩ mô thì nó có lợi tức tăng dần theo quy mô.
Ví dụ: các phát mình, sáng chế phải bỏ ra rất nhiều công sức, tiền bạc để nghiên cứu thành công, khi được áp dụng trong một phạm vi hẹp, quy mô nhỏ cho 1 số đối tượng, 1 số khu vực thì có thể không bù đắp được chi phí nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu được áp dụng trên toàn thế giới, ở quy mô lớn hơn sẽ mang lại tác động và giá trị lớn hơn gấp nhiều lần.
Vì các doanh nghiệp không sẵn lòng đầu tư lắm cho hoạt động nghiên cứu, phát triển (R&D) nên chính phủ cần phải thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động này, như là:
- Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;
- Trợ cấp cho hoạt động R&D;
- Trợ cấp cho giáo dục: (giáo dục là quốc sách hàng đầu).
04 nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là gì?
Qua nhiều năm quan sát, nghiên cứu về sự tăng trưởng kinh tế tại các nước phát triển và đang phát triển, các nhà kinh tế học đã phát hiện ra 04 nhân tố của tăng trưởng kinh tế, bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ.
Nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế. Lực lượng lao động có kỹ năng, kiến thức và tuân thủ kỷ luật là điều kiện tiên quyết của nguồn nhân lực có chất lượng. Các yếu tố khác như nguyên vật liệu, công nghệ, máy móc thiết bị chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả nếu chúng ta có nguồn nhân lực có chất lượng tốt ( sức khỏe, trình độ văn hóa, kỷ luật lao động).
Tài nguyên thiên nhiên: đất đai, khoáng sản, rừng và nguồn nước là những tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất và có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế. Trong đó, dầu mỏ là một trường hợp đặc biệt, có nhiều quốc gia có nguồn dầu mỏ dồi dào có thể đạt được mức thu nhập rất cao gần như hoàn toàn dựa vào việc khai thác dầu mỏ để bán như Arab Saudi và một số quốc gia Vùng Vịnh. Tuy nhiên, như đã nói, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng top đầu thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị…nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân đầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia…), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi….
Công nghệ, khoa học kỹ thuật: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ “phần thưởng cho sự đổi mới” – sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
Các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Chính sách khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước
- Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
- Chính sách về vốn nhân lực
- Xác định quyền sở hữu tài sản và ổn định chính trị
- Chinh sách mở cửa nền kinh tế
- Chính sách kiểm soát tăng dân số
- Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới
Các thuật ngữ quan trọng
- Tăng trưởng kinh tế (tiếng Anh là economic growth)
- Quy luật Okun (tiếng Anh là Okun law)
- Vốn nhân lực (tiếng Anh là human capital),
- Tài nguyên thiên nhiên (natural resource),
- Tích lũy tư bản (tiếng Anh là capital accumulation);
- Tiến bộ công nghệ (tiếng Anh là Technological progress)
- Lý thuyết cổ điển (tiếng Anh là Classical theory),
- Lý thuyết trường phái Keynes (tiếng Anh là Keynesian theory),
- Lý thuyết tân cổ điển (tiếng Anh là Neoclassical theory),
- Lý thuyết hiện đại (tiếng Anh là Modern theory);
- Thuyết hội tụ (tiếng Anh là Catch-up hypothesis);
- Bẫy thu nhập trung bình ( tiếng Anh là midle-income trap): Bẫy xảy ra khi một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập đạt được nhờ có nguồn tài nguyên và những lợi thế ban đầu nhất định, mà không vượt qua được ngưỡng đó (chỉ có may mắn mà không có nỗ lực).
Trong trường hợp quý khách hàng cần luật sư tư vấn, giải đáp bất cứ vấn đề pháp lý nào liên quan đến bài viêt “Tăng trưởng kinh tế là gì“, vui lòng liên hệ tổng đài tư vấn 19006518 để được giái đáp.
Bài viết “Tìm hiểu về tăng trưởng kinh tế là gì?” có tham khảo: Wikipedia – Giáo trình Kinh tế vĩ mô NEU– FTU